Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất huy động và cho vay liên tục giảm, tăng trưởng GDP thấp được cho là do doanh nghiệp không đậm đà vay vốn do không tìm được đầu ra. Tín dụng thành ra có tốc độ tăng trưởng thấp. Cụ thể, tăng trưởng tín dụng sáu tháng đầu năm chỉ đạt 3,6%. Tuy vẫn cao hơn mức 0,2% của cùng kỳ năm trước, nhưng vẫn thấp hơn mức 4,78% của năm 2011, và thấp hơn rất nhiều so với các mức tăng của những năm có tốc độ tăng trưởng tín dụng lên tới 30 – 40%. Duyên cớ tín dụng tăng trưởng chậm Trong nền kinh tế, tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng huy động thường có mối tương quan với nhau. Các tổ chức tín dụng, sau khi huy động vốn từ người dân và doanh nghiệp, sẽ phải tìm cách cho vay ra để đảm bảo lợi nhuận.
Tuy nhiên, trong những giai đoạn nền kinh tế tăng trưởng nóng hoặc nguội lạnh thì mối quan hệ này sẽ khác đi. Trong giai đoạn tăng trưởng nóng, nhu cầu tín dụng thường rất cao. Tốc độ tăng trưởng tín dụng sẽ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng huy động. Đây là điều đã diễn ra trong tuổi năm 2008 và từ giữa năm 2009 đến giữa năm 2010. Ngược lại, khi nền kinh tế nguội lạnh như từ giữa 2011 trở lại đây thì tốc độ tăng trưởng tín dụng có thiên hướng thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng huy động. (Thời đoạn 2006 – 2007 tốc độ tăng trưởng tín dụng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng huy động đốn là vì dòng vốn nước ngoài tăng mạnh. Nguồn vốn ngoại được tạm gửi vào hệ thống nhà băng trước khi giải ngân). Trong những năm trước đây, khi nền kinh tế tăng trưởng nóng, quy mô đầu tư của nền kinh tế được duy trì ở mức rất cao lên tới trên 40% GDP, trong đó đầu tư từ khu vực nhà nước chiếm tới 35 – 40%. Quốc gia, với quy mô đầu tư và tiêu dùng rất lớn của mình, trở nên một khách hàng đồ sộ đối với các doanh nghiệp. Nhưng khi đầu tư từ nguồn ngân sách bị cắt giảm đột ngột từ mức 17,2% GDP thời đoạn 2005 – 2010 xuống còn 13,5% GDP năm 2011 và 12,7% GDP năm 2012, thì khu vực doanh nghiệp bỗng dưng bị mất đi một nguồn tiêu thụ đáng kể. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài có thể tìm được nguồn tiêu thụ thông qua các kênh phân phối ở nước ngoài, thì các doanh nghiệp nội địa không thể tức khắc tìm được khách hàng mới để thay thế cho sự cắt giảm ăn tiêu của quốc gia. Hệ quả là khu vực doanh nghiệp ngoài quốc gia đã buộc phải cắt giảm đầu tư, từ mức 15,1% GDP năm 2010 xuống còn 12,2% GDP năm 2011 và 13% GDP năm 2012. Như vậy, việc quốc gia quyết định cắt giảm đầu tư công là duyên cớ khiến cho khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước cắt giảm đầu tư, dẫn đến tăng trưởng tín dụng từ năm 2011 tới nay duy trì ở mức thấp. Và tình trạng này sẽ chưa thể cải thiện được khi mà các doanh nghiệp vẫn bí đầu ra. Cần thời gian để phục hồi Trước tình hình tăng trưởng kinh tế chưa thực sự được cải thiện, đã có nhiều tiếng nói kêu gọi Chính phủ gia tăng đầu tư công để kích cầu. Đầu tư công tăng sẽ kích thích đầu tư tư nhân. Doanh nghiệp sẽ vay vốn nhiều hơn đề đầu tư. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi của đầu tư công ở Việt Nam trong những năm qua là kém hiệu quả. Việc gia tăng đầu tư công sẽ không giúp ích được nhiều cho tăng trưởng kinh tế, trong khi lại đe dọa đến các cán cân vĩ mô, đặc biệt khi mức nợ công của Việt Nam cao như hiện thời. Như vậy, có thể nói, sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời kì tới phụ thuộc đốn vào sự đổi mới và năng động của chính khu vực doanh nghiệp tư nhân. Nếu các doanh nghiệp tìm được những đầu ra mới cho các sản phẩm của mình, thì họ sẽ mở mang sinh sản và tăng nhu cầu tín dụng. Nhưng để tìm ra được những đầu ra mới, các doanh nghiệp cần thời kì để điều chỉnh cơ cấu. Trước nhất, một số doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa hoặc giảm quy mô sản xuất các loại hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho khu vực quốc gia. Sau đó, những doanh nghiệp trụ được sẽ đổi mới sáng tạo, tìm cách hạ giá thành sản phẩm cũng như tạo ra các sản phẩm mới. Khi có thị trường, các doanh nghiệp này sẽ đầu tư để mở rộng sinh sản. Quá trình tái cơ cấu chẳng thể diễn ra nhanh chóng. Đây là điều đã từng xảy ra ở các nước khác trong khu vực như Thái Lan và Indonesia. Phải mất 4 – 6 năm các nhà nước này mới quay trở lại được quỹ đạo tăng trưởng. Vai trò của Chính phủ trong giai đoạn tái cơ cấu là phải duy trì được mức lạm phát thấp và ổn định. Thái Lan duy trì mức CPI dưới 5% trong hồ hết thời gian từ sau năm 2000 trở lại đây. Indonesia cũng đã làm được điều này kể từ năm 2006. Chỉ trong môi trường lạm phát ổn định và thấp thì doanh nghiệp mới có khả năng tính hạnh được đâu là lĩnh vực mà doanh nghiệp có thể phát triển trong trung và dài hạn, và khi đó doanh nghiệp mới bỏ vốn đầu tư phát triển. Cho nên, đây là thời điểm Chính phủ cần tiếp tục kiên định đích ổn định vĩ mô, cụ thể là duy trì mức lạm phát thấp, tốt nhất là đưa về mức 5% như các nước khác trong khu vực. Việc cắt giảm chi tiêu thẳng băng để tăng ngân sách cho đầu tư công cũng là việc nên làm để hỗ trợ tăng trưởng. Cắt giảm ăn xài trực tính cũng giúp cho Chính phủ cân bằng ngân sách ngay cả khi giảm thuế cho doanh nghiệp từ 25% xuống 22% và xuống 20% trong năm 2016. Ngoại giả, việc đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc gia cũng giúp các doanh nghiệp này chủ động đổi mới sáng tạo, tìm được những kênh phát triển mới, và qua đó có thể mở mang đầu tư sản xuất. Đinh Tuấn Minh |