Còn đó nỗi lo lạm phát Không thể phủ định là vừa qua cũng đã có một số nguyên tố làm cho nền kinh tế chuyển động theo hướng bình phục ổn định và tăng trưởng. Tỉ dụ lạm phát giảm khá mạnh, kéo theo lãi suất hạ hay GDP quý 2 tăng nhanh hơn quý 1. Lãi suất hạ, nhưng doanh nghiệp vẫn khó tiếp cận được vốn. Khi doanh nghiệp đã quá yếu sức thì lãi suất 10% - 12%/năm, thậm chí 9% - 10%/năm vẫn là cao. Nợ xấu, chưa xoay chuyển được một cách bản tính, vì năng lực trả nợ chưa được cải thiện đích thực, chỉ mới là phép đảo (cơ cấu lại nợ) để nợ cũ, nợ xấu thành khoản vay mới. Như vậy vẫn tiềm tàng nhiều nguy cơ. Mặt khác, khi nền kinh tế đang yếu thì nỗi lo lạm phát cũng phải khác lúc đang mạnh. Kinh tế “khỏe”, dù CPI tăng thêm 4% - 5% có thể vẫn chưa có vấn đề gì lớn, nền kinh tế vẫn đủ “khỏe” để chịu được. Nhưng khi nền kinh tế yếu đi thì lạm phát chỉ tăng thêm 1% thôi có thể cũng đã rất hiểm vì nó sẽ tác động ngay đến lãi suất, trong khi chúng ta đang rất cần giảm lãi suất để các doanh nghiệp tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Tôi cho rằng giai điệu “không nên quá lo lạm phát, cần kích cầu mạnh để cứu tăng trưởng” bây giờ mà hát lên là hơi sớm, dễ dẫn đến tâm lý chủ quan! Hoàn toàn có lý khi các chuyên gia nước ngoài đánh giá rằng chưa giải tỏa được nợ xấu một cách thực thụ thì khó lòng đẩy tín dụng lên được. Hãy nhìn “gói giải cứu bất động sản” 30.000 tỷ đồng mà xem. Do nhiều thứ thủ tục, tiêu chuẩn... Nên không dễ giải ngân, dù tiền đã có. Trong khi đó, nếu bơm khoản vốn đó ra nhanh mà không giám sát chặt chịa sẽ phát sinh bị động, gây sai lệch thị trường và làm hỏng cơ chế, bộ máy. Xin nói thẳng là việc kích cầu phải rất cẩn trọng. Chúng ta đã phải trả giá đắt cho hai lần kích cầu năm 1998 và 2009. Ưu tiên giải tỏa nợ xấu và tái cơ cấu DNNN Trong những tháng tới, theo tôi, có hai việc phải ưu tiên hàng đầu, tức là ưu tiên hơn tăng trưởng. Một là ổn định vĩ mô, không chỉ là kìm giữ CPI mà còn gắn với việc củng cố lòng tin của thị trường vào ứng xử chính sách; ở sự kiên định và kiên tâm thực hiện đến cùng các cam kết của Chính phủ. Nếu tuyển lựa ưu tiên này thì trước hết phải tụ tập giải quyết nợ xấu. Giải quyết nợ xấu một cách bản chất thì phải có tiền thật, phải có nhiều tiền. Giải quyết hàng tồn kho cũng phải có tiền thật. Điều này đồng nghĩa với việc nguồn lực cho tăng trưởng bị san sẻ bớt. Về cách làm, để giải quyết tốt nợ xấu, Chính phủ nên ưu tiên trả tiền nợ xây dựng cơ bản cho các doanh nghiệp. Trả được món nợ này thì nợ xấu của nhiều doanh nghiệp tại các ngân hàng cũng bớt đi rất nhiều, đồng thời doanh nghiệp có nguồn lực để tiếp chuyện phát triển sản xuất kinh doanh. Để trả nợ cho doanh nghiệp trong điều kiện ngân sách khó khăn hiện giờ, quốc gia có thể bán bớt tài sản đi, lấy tiền đó trả nợ doanh nghiệp. Bán rẻ hơn thường ngày cũng được, vì bây giờ là lúc bất thường ngày. Tâm tính kỹ giá trị thời điểm, hoài nhịp thì có khi bán rẻ một chút lại cứu được nhiều doanh nghiệp khác, khai thông nền kinh tế. Việc thứ hai cần phải đặt ra quyết liệt hơn rất nhiều là tái cơ cấu DNNN. Thực hành nhiệm vụ đương nhiên tốn rất nhiều tiền. Thí dụ, nợ của Vinashin lên tới cả gần trăm ngàn tỷ đồng. Để tái cơ cấu Vinashin được, phải trả khoản nợ đó. Đây là điều kiện tiên quyết của tái cơ cấu. Mà chúng ta đâu chỉ có một Vinashin! Chúng ta còn có Vinalines và nhiều “Vina” khác như vậy. Do vậy, trong điều kiện ngân sách khó khăn, doanh nghiệp đang suy kiệt, Chính phủ nên giao hội chỉ đạo tái cơ cấu chỉ 2 - 3 tập đoàn, làm thật trang nghiêm, chặt đẹp để bảo đảm thành công. Từ đó, rút được kinh nghiệm cho công cuộc tái cơ cấu chung, vừa tạo đà rất tốt, tạo tâm lý phấn khởi vì người ta thấy Chính phủ đã thực hiện đúng và triệt để cam kết. Đằng nào cũng phải tái cơ cấu, vậy thì vì sao không chọn hẳn những doanh nghiệp tốt mà làm trước? Bán được vốn ở những doanh nghiệp này, ngân sách sẽ có thêm tiền để tái đầu tư. Đương nhiên, đã tái cơ cấu thì cũng phải bớt vốn cho đầu tư tăng trưởng. Tóm lại, cách hành xử chính sách phụ thuộc vào đích ưu tiên. Nguồn lực không nhiều, nên phải tính. Cụ thể theo tôi, năm nay có thể đặt đích tăng trưởng vừa phải thôi, tỉ dụ 4,5% - 5,0%. Nếu xuống dưới mức đó mà ảnh hưởng trầm trọng đến việc làm, thu nhập, gây bất ổn tầng lớp thì chúng ta cương quyết giữ mức đó, đầu tư chỉ “vừa đủ” đạt mức đó. Nguồn lực còn lại tụ tập để lo giải tỏa các “cục máu đông” như đã nói ở trên. Nghĩ dài hạn sẽ vượt qua khó khăn ngắn hạn Nhìn ở khía cạnh tích cực thì khó khăn, khủng hoảng cũng là nhịp để tiến hành cải cách mạnh mẽ nhất. Yếu về lực nhưng tinh thần minh mẫn thì vẫn có cách để khắc phục. Tôi cho rằng hiện thời, trong nền kinh tế, vẫn còn nhiều nguồn lực có thể cổ vũ được nếu thị trường có lòng tin. Vĩ mô ổn định, chính sách nhất quán, người ta sẽ bỏ vốn ra, không cất giữ trong vàng, ngoại tệ trong két sắt hay “bao tượng” nữa, mà sẽ đầu tư. Nguồn này không hề nhỏ. Hoặc khi củng cố được lòng tin, chúng ta cũng không khó tiếp cận nguồn vốn quốc tế. Chúng ta đã từng có kinh nghiệm sâu sắc là nếu không có những biện pháp dài hạn thì không thể vượt qua những khó khăn ngắn hạn được. Những năm 1986 - 1990 cũng là giai đoạn rất khó khăn, chúng ta đã tụ hội vào những chính sách chiến lược và thành quả đạt được rất lớn, với những khung khổ pháp lý làm tiền đề cơ bản cho đầu tư nước ngoài, chính sách tiền tệ, tỷ giá, khích lệ được sự phát triển của khu vực tư nhân... Cứ loay hoay theo kiểu “rách đâu vá đó”, gỡ được chỗ này, chỗ kia lại rối… Đặc biệt, phải xác định với nhau là sẽ không có cái gì rưa rứa phép màu nhảy vọt chỉ sau một đêm! Bất động sản và nợ xấu là câu chuyện gay go cho cả nhân loại. Các nước nhiều kinh nghiệm hơn, giàu nguồn lực hơn, kỷ luật tài chính còn tốt hơn ta mà cũng phải mất dăm bảy năm, thậm chí hàng thập kỷ mới xử lý triệt để được. Nhưng có đủ cơ sở để có một lòng tin và sự lạc quan dài hạn: Nền kinh tế đang mở ra dư địa canh tân rất lớn. Đó là nhịp lớn đang mở ra. Hiếm hoi và vẫn có nguy cơ bị bỏ lỡ. Bởi vậy, chúng ta phải cố vô cùng.
PGS-TSTRẦN ĐÌNH THIÊN |