Không nhớ ai đó đã nhận xét rất hay về thơ Trần Quang Quý: Quê nhưng không Mùa
Các nhà thơ thường che chắn, thơ tình được viết bằng mường tưởng, còn Trần Quang Quý chẳng dại gì nói dối: “Tôi viết bằng cả hình dung và thực tế”.Những câu thơ kiểu này không dễ dàng viết ra nhưng có thể nhiều người cũng viết được, tôi chắc bạn đọc sẽ quyến luyến những câu thơ đẫm tình quê của Trần Quang Quý hơn: “Cổ tích làng tôi tắm ở cầu ao/Em cứ thả trắng ngần trăng ướt/Tôi vục xuống lòng tay như hứng được/Một làn hương bồ kết bay hờ” hay “Lớp gạch già lõm mặt/Cánh cổng lăn kẽo kẹt đời người”… Ngỡ mình… như cá Trần Quang Quý có hai con trai, không theo nghiệp thơ ca của bố.
Hẳn nhiên đó cũng chính là vật liệu để Trần Quang Quý viết những câu thơ tình. Cãi thì chẳng cãi nhưng bất bình cũng chẳng theo đó mà tiêu tan: “Người ta cũng có tài cũng cảm nhận được thơ tôi, song lại cố đổi trắng thay đen, ngẫm mà buồn”. Chẳng thể nói, tuốt thị phi đều từ trên giời rơi xuống (nói thế oan cho giời). Anh là tác giả của những câu thơ vừa âu yếm, vừa xúc cảm thế này: “Lối vào nhỏ/Căn nhà ta bé nhỏ/Một tiếng guốc khua đã đủ chật rồi/Em nấu ăn nhìn anh trong mắt ướt/Thế là chiều Hà Nội bớt lang thang”.
TS Nguyễn Đăng Điệp khen Trần Quang Quý không muốn lặp lại những nẻo đường của người khác đã đi, còn nhà thơ Nguyễn Thụy Kha thì “văn vở” hơn khi viết: “Trong cuộc Olympic thơ Việt đầu thế kỷ mới, cung thủ Trần Quang Quý với độ căng của dây cung triết lý, với sự nhọn của thi ảnh, với sự tự tín của xúc cảm đã bắn tới đích của sự mới mẻ, bằng những câu thơ mũi tên bay theo giai điệu du ca để tạo thành cõi lạ”.
Hay khi tôi viết về cái lưỡi điêu ngoa, “Chiếc lưỡi mặc chiếc quần trễ rốn”, người ta cũng lại chế nhạo… tâm thành, đây mới chính là những phát hiện, cải cách của một người thơ không mỏi mệt - Trần Quang Quý. Không nhận mình đào hoa nhưng thi sĩ cũng từng được một số chị em tỏ tình.
Nếu chỉ nói, “Màu tự do của đất” thua “Giấc mơ hình chiếc thớt” thì cũng chẳng có gì tranh biện, bởi đó là quyền thẩm thấu của kẻ thu nhận. Anh thuộc hàng may mắn vì “thi hứng” đột nhập đều đều, không bỏ rơi giữa chừng, giữa đoạn.
Trần Quang Quý không “thần tượng” một thi sĩ cụ thể nào. Nếu cứ soi lí tí thì đến cả những câu tuyệt bích như “Ô hay, buồn vương cây ngô đồng/ Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông” có khi cũng còn có… vi trùng.
“Người quê đi đến chỗ nào chả quê”, chắc Trần Quang Quý ngẫm từ mình mà viết vậy. Bùi ngùi ưa: “Ở nước mình chẳng ai sống được bằng nghề làm thơ”, thế mà cái nghề “chết đói” ấy thỉnh thoảng cũng mang lại “món hời” không thể quy ra vật chất. Chẳng biết đến lần sau, Trần Quang Quý có ra tập bút kí kể chuyện ba lần đến nước Mỹ như vị giáo sư nọ không, hay lại thai nghén một chùm thơ quê? Trần Quang Quý sinh ra ở Phú Thọ.
Trong luôn thể thơ êm ái, dễ làm với người trong nghề, Trần Quang Quý đã gắng để giữ nó không trôi đi tuồn tuột dưới ngòi bút của anh. Anh du ngoạn dưới gầm trời cũng khá, đi rất nhiều nơi, và mới trở về từ Mỹ: “Đây là lần sang Mỹ thứ hai của tôi”. Có những câu thơ tình khiến tác giả “Bên kia sông Đuống” phải rơi nước mắt khi đọc: “Anh nghèo lắm có gì đâu ngoài sách/Có gì đâu gia tài chẳng ngoài em/Ô cửa hẹp mà trời thăm thẳm quá/Một ngôi sao thả lỏng giữa xa mờ”.
“Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt”, nhưng nhìn anh chẳng thấy miền bình yên nào. Có lẽ chất đồng quê lãng mạn nhưng ẩn chứa nhiều trăn trở của Exenhin cũng ảnh hưởng phần nào trong nhiều sáng tác của Trần Quang Quý? Thơ Trần Quang Quý chưa bao giờ thôi hết trằn trọc, bởi thế cuộc chẳng bao giờ hết những vấn đề day dứt nghĩ suy, cũng như thơ ca luôn cựa mình đòi đổi mới.
Trần Quang Quý biết ở đằng sau có kẻ “đánh” mình nhưng anh có lý do riêng, để không “đánh” lại: “Hơi đâu mà… cãi”. Tôi viết bài thơ “Chiếc gươm trong bảo tàng”, trong đó có câu: “Tiếng nghiến răng lịch sử/ Còn khía những vết thương hòa bình”, thì người ta giễu tôi: Trần Quang Quý cho lịch sử mọc răng”.
Ngoảnh mặt nhìn thiên hạ thấy lấp lóa những “Siêu thị mặt”. Là kẻ ít lấy men rượu làm vui nhưng men say mường tưởng cũng giúp anh buông mình thả những câu thơ thật là thơ: “Rượu đã thấm/Tóc không bờ mây biếc/Em thôi cười như thuở thờ ơ trăng/Những ngang ngửa sau một ngày cơm áo/Ta lẻ loi đơn chiếc biết nhường nào”, lại nữa: “Em đến như cổ xưa /Em đến như bóng tối/Tôi như con chim bay lạc giữa sao trời/Trong đáy mắt em vừa chợt mở/Biết dòng sông còn trôi hay không?”.
Cùng với thời gian thơ Trần Quang Quý càng giàu học thuyết, chiêm nghiệm. Nhưng thấy tội tội khi tập thơ “Màu tự do của đất” bị lôi ra kính hiển vi, bóc tách từng câu chữ. Quê nhưng không Mùa Trần Quang Quý cho rằng, anh sáng tác sung sức nhất trong mười năm trở lại đây, thành quả là những tập thơ nối nhau ra đời: “Giấc mơ hình chiếc thớt” (2003), “Siêu thị mặt” (2006), “Cánh đồng người” (2010), “Màu tự do của đất” (2012).
Hỏi Trần Quang Quý có chấp thuận với “vốn liếng” tích lũy được qua thời kì? Nhận được câu giải đáp không có gì “đột phá”: “Khát khao là vô cùng nhưng tôi ưng ý với những gì mình có”. Nhưng sáng tác văn xuôi cần nhiều thời gian, Trần Quang Quý thì bận bịu, với công việc ở NXB Hội Nhà văn, nơi anh giữ vị trí Phó giám đốc và… chắc cũng còn nhiều câu chuyện liên hệ áo cơm khác nữa
Thơ Trần Quang Quý trẻ hơn tuổi tác và vẻ ngoài của anh, điều này nhiều người nhận.
Có nhà phê bình thích câu: “Mọi vật đều có một trật tự/Chỉ ý nghĩ là tự do”. “Vai nào anh sắm đạt nhất trong thế cục?”, hỏi Trần Quang Quý. Hay khi tôi viết: “Những ngôn từ chưa mọc râu/Những bào thai thời cục chết yểu” thì người ta “vặn”: “Đối với Trần Quang Quý hiện thời ngôn ngữ cũng… có râu”.
Tuy ít nhưng đượm. Trong những thời khắc long đong của cuộc thế, cũng từng có lúc Trần Quang Quý ngỡ mình… như cá.
Ngoài thơ, Trần Quang Quý đặc biệt ham mê thể thao, chơi một đôi môn thể thao vào những ngày rảnh và không để lỡ bất cứ một trận bóng đá quyến rũ nào trên truyền hình, dù diễn ra vào lúc nửa đêm. Kết quả là, từ khi bắt đầu làm thơ, năm 17 tuổi, đến nay sau vài chục năm, anh đã có gia tài kha khá: 6 tập thơ.
Bảo, ở tuổi của anh có nhẽ sẽ hợp hơn nếu chuyển sang viết tiểu thuyết? Anh cười: “Đó cũng là một trong những ý định của tôi”.
Anh đáp: “Vai đạt nhất và lộ nhất chính là mặt tôi”. Nông Hồng Diệu. Thơ đâu phải toán học. Nhắc chuyện yêu đương của Trần Quang Quý mới thấy cái lợi của người làm thơ.
Những câu như “Chân trời chôn dưới đường cày/Trời suông suông vẫn ở ngay trên trời/Lời rơm rạ ngắn mùa dài/Cơm quê một bát đong đầy nỗi quê” hay “Ngày vui khua những dần sàng/Đêm buồn nhấm nháp ngô rang thuốc lào”, ngóng ra cũng chẳng đến nỗi ngượng với Đồng Đức Bốn, kẻ đóng góp nhiều cho thơ lục bát.
Cái vẻ thô nháp lồ lộ thật khó lọt qua vòng kiểm duyệt của chị em ưa hình thức. Nhưng đúng là cũng có khi Trần Quang Quý bị… oan. Nhưng anh cho biết, rất thích chất suy tưởng trong thơ Chế Lan Viên, thuở mới vào nghề, lại mê Exenhin. Hơi đâu mà… cãi Người trong giới đều biết Trần Quang Quý sở hữu thứ chẳng ai thèm tỵ nạnh: thị phi.
Trần Quang Quý cho rằng, anh sáng tác sung sức nhất trong mười năm trở lại đây, thành tựu là những tập thơ nối nhau ra đời: “Giấc mơ hình chiếc thớt” (2003), “Siêu thị mặt” (2006), “Cánh đồng người” (2010), “Màu tự do của đất” (2012).
Nếu cứ xét vẻ ngoài thô mộc, dễ đoán Trần Quang Quý là “người tình chung thủy” của thể thơ tự do nhưng anh cự nự: “Cũng có làm thơ lục bát đó chứ, tôi không “li dị” truyền thống”. Anh có một đời sống gia đình “không giật gân”, thường nhật như bao người khác, cũng không làm bạn với rượu.
Anh là tác giả của những tập thơ mang tên lạ: “Siêu thị mặt”, “Giấc mơ hình chiếc thớt”… Tập thơ “Giấc mơ hình chiếc thớt” tụ họp những bài thơ nói đến thân phận của những người yếm thế. Anh cứ liệu: “Khi đến thăm bảo tồn, tôi nhìn thấy chiếc gươm, cảm thấy nỗi khổ đau, mất mát. Giời thương, tuy có tần tiện nhào nặn vẻ ngoài nhưng lại khoáng đạt ban phát thứ bên trong.
Tập thơ mới nhất, giành giải thưởng của Hội Nhà văn chẳng hạn. Nỗi ám ảnh của con cá chính là cái thớt. Tranh: Nguyễn Xuân Hoàng. Nhìn anh lại nhớ tới câu thơ lừng danh một thời của Khuất Quang Thụy: “Sống mới khó làm sao/Nữa là còn tranh đấu/Nữa là còn sáng tạo/ Nữa là còn yêu nhau”.
Thơ tình không phải nguồn mạch chính tinh khiết tác của Trần Quang Quý.